Cây cảnh thường bị hại bởi những bệnh nào và Cách phòng trừ chúng như thế nào?
Mục lục nội dung
Cũng như các loài thực vật khác, cây cảnh trong quá trình sinh trưởng phát triển không thể tránh khỏi sự xâm nhiễm của bệnh, ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng, làm giảm giá trị làm cảnh của cây.
Các loại bệnh hại bao gồm bệnh không truyền nhiễm (hay bệnh sinh lý) và bệnh truyền nhiễm (hay bệnh ký sinh).
1. Bệnh không truyền nhiễm
Là bệnh không lây lan và do nhiều nguyên nhân gây ra như: nhiệt độ, độ ẩm, đất đai, phân bón không thích hợp.
Muốn phòng trừ những bệnh hại này chỉ cần nâng cao điều kiện sinh trưởng, cải thiện các biện pháp trồng.
2. Bệnh truyền nhiễm
Là những bệnh lây lan do các sinh vật gây ra như nấm, vi khuẩn, virus, tuyến trùng. Những sinh vật đó có thể sinh sản và lây lan trong điều kiện thuận lợi chúng có thể lây lan nhanh, tác hại nghiêm trọng.
Sự phát sinh bệnh truyền nhiễm cũng do môi trường không sạch, cỏ dại nhiều, bệnh lây nhanh. Chỉ có cải thiện điều kiện môi trường, cải tiến kỹ thuật trồng cây mới làm cho cây khoẻ, nâng cao tính chống chịu bệnh, giảm bớt nguồn lây bệnh.
Cây cảnh thường gặp một số bệnh như sau:
2.1. Bệnh phấn trắng
Bệnh phấn trắng phát sinh trên lá và cành non, cuống hoa, cuống chồi. Bộ phận bị bệnh được phủ lớp bột trắng, lá non và hoa xoăn lại, bệnh nặng có thể làm cho cây chết (Hình 33).
Hình 33. Bệnh phấn trắng
1- cây bị hại; 2 - bào tử
Bệnh qua đông trên chồi, cành bệnh và lá rụng. Khi nhiệt độ 18-25⁰C sẽ sinh ra bào tử lây lan xâm nhiễm. Tháng 6-8 hình thành hàng loạt bào tử và tái xâm nhiễm. Nếu bón nhiều phân nitơ, đất thiếu canxi hoặc đất cát khô đều có thể làm cho bệnh phát sinh. Những nơi thiếu ánh sáng, độ ẩm không khí cao, không thoáng gió cũng làm cho bệnh nặng thêm. Những nơi biến đổi nhiệt độ nhiều, đất khô phá hoại tác dụng bốc hơi bình thường, làm giảm sức căng mô tế bào làm giảm sức chống chịu bệnh, bệnh cûng nặng dần.
Ta thường gặp một số bệnh phấn trắng cây hoa hồng, cây hoa cúc.
♦ Kỹ thuật phòng trừ:
(1) Chọn cây không bệnh
(2) Tăng cường quản lý, kịp thời tưới nước, thông gió
(3) Mùa đông cắt lá cành khô đốt đi
(4) Phun thuốc: a) Đầu xuân phun hợp chất lưu huỳnh vôi 3-4⁰Be; b) Kỳ phát bệnh phun Topsm 0,1% hoặc Bavistin 0,1%.
2.2. Bệnh gỉ sắt
Bệnh gỉ sắt hình thành bào tử đảm trên cành non và gốc lá, thời kỳ đầu phiến lá và cuống hoa có các đốm sùi lên, vỏ nứt và bào tử hạ màu vàng bay ra (Hình 34).
Hình 34. Bệnh gỉ sắt
1- cây bị hại; 2- bào tử
Nấm qua đông bằng bào tử đông và sợi nấm trên mô bệnh. Tháng 6-7 khi nhiệt độ 24-25⁰C, độ ẩm 85%, bệnh gỉ sắt sẽ phát sinh và lây lan. Trong các khu vực quanh năm ấm áp, bào tử hạ có thể qua đông và thành nguồn lây lan. Những nơi quản lý cây kém, trồng quá dày không thoáng gió, thiếu ánh sáng, tích nhiều nước trong đất, nghèo dinh dưỡng hoặc bón phân quá nhiều rất dễ bị bệnh gỉ sắt.
Ta thường gặp bệnh này trên các loài cây hoa hồng, cây hoa cúc, cây cẩm chướng, lưỡi đông (đuôi diệc).
♦ Kỹ thuật phòng trừ:
(1) Chọn cây không bị bệnh để trồng
(2) Tăng cường quản lý, bón phân hợp lý, cắt tỉa cành bệnh, đốt đi
(3) Phòng trừ bằng thuốc: a) Đầu mùa xuân phun hợp chất lưu huỳnh vôi 3-4⁰Be; b) Mùa sinh trưởng phun Zineb 0,1% hoặc Topsin 0,1%.
2.3. Bệnh bồ hóng
Bệnh bồ hóng thường được thấy trên lá cây hoa trà, làm mốc đen cả cây và ảnh hưởng đến quang hợp của lá cây (Hình 35).
Hình 35. Bệnh bồ hóng
1- cành bệnh; 2- vỏ túi kín và sợi phụ
Lớp bột đen trên lá là những vỏ túi kín, sợi nấm, bào tử phân sinh; bào tử túi qua đông thành nguồn xâm nhiễm ban đầu. Các chất tiết của rệp sáp, rệp ống đều có thể kích thích bào tử nảy mầm. Bào tử và sợi nấm lây lan nhờ gió, côn trùng và xâm nhiễm lại.
♦ Phương pháp phòng trừ:
Cần tiến hành tỉa cành định kỳ, để nơi thông thoáng và đủ sáng.
Bệnh bồ hóng liên quan mật thiết với rệp ống, rệp sáp, nhện đỏ, tiêu diệt các loài sâu hại này sẽ làm giảm bệnh bồ hóng. Khi dùng thuốc trừ sâu có thể thêm 0,01% thuốc tím để trừ nấm bồ hóng.
2.4. Bệnh đốm lá
Bệnh đốm lá gây hại trên lá tạo nên các đốm tròn, màu tím, đỏ, nâu, đen, xám, trắng, có viền mép rõ rệt. Trên đốm có các chấm nhỏ đen tạo thành các vân vòng hoặc không có vân vòng đồng tâm.
Bệnh qua đống trên xác cây bệnh trong đất. Mùa xuân năm sau lây lan gây bệnh, tháng 8-9 bệnh lây lan nặng (Hình 36).
Ta thường gặp bệnh này trên lá cây cẩm chướng, cây hoa cúc, cây hồng, cây hoa lan.
♦ Kỹ thuật phòng trừ:
(1) Chọn cây chống chịu bệnh;
(2) Luân canh trong 2 năm tăng cường bảo vệ lá mới;
(3) Phun thuốc: Nước Boocđô 0,1% hoặc thuốc bột thấm nước Maneb 0,1% hoặc Daconil 0,1%.
2.5. Bệnh đốm than
Bệnh đốm than chủ yếu gây bệnh trên lá, có thể cả trên cành non, thường có hai hiện tượng giữa đốm bệnh xuất hiện màu nâu nhạt hoặc trắng xám mép có viền nâu sẫm hình gần tròn, thường phát sinh trên mép lá hoặc ngọn lá, trên lá có các chấm nhỏ xếp thành vân vòng đồng tâm.
Một loại khác là trên cành hình thành các đốm hình tròn hoặc gần tròn màu nâu nhạt, trên mặt có các chấm nhỏ màu đen.
Bệnh qua đông trên cây bệnh hoặc trong đất bằng sợi nấm. Khi nhiệt độ 22-28⁰C, độ ẩm 95%, đất chua pH5,5-6, bào tử nảy mầm xâm nhiễm lây lan. Bệnh lây lan nhờ gió, mưa (Hình 37).
Ta thường gặp bệnh này trên cây hoa lan, cây tai thỏ, cây lô hội.
♦ Kỹ thuật phòng trừ:
(1) Cắt tỉa lá bệnh và đốt ngay
(2) Khi tưới nước nên tưới quanh chậu, luôn bảo đảm thông gió
(3) Phun thuốc: kỳ phát bệnh phun Bavistin 0,2% hoặc Topsin 0,2% phun 3-4 lần, mỗi lần cách nhau 10-14 ngày.
2.6. Bệnh mốc xám
Bệnh mốc xám có thể gây bệnh trên lá, hoa, cành. Bộ phận bị bệnh hình thành lớp mốc màu vàng hoặc màu xám, thân cây bị bệnh có thể bị thối gãy và làm cho cả cây bị chết (Hình 38).
Bệnh qua đông bằng hạch nấm trong đất, mùa xuân hình thành bào tử lây lan nhờ gió, mưa. Cây trồng nhiều năm, bón phân nitơ quá nhiều, trồng quá dày, thiếu ánh sáng, không thoát nước bệnh sẽ rất nặng.
Ta thường gặp bệnh này trên cây hoa hồng, cây hoa trà.
♦ Kỹ thuật phòng trừ:
(1) Cần khử trùng đất trước lúc trồng
(2) Phun thuốc: Zineb 0,2% hoạ́c Daconil 0,2%; 10 ngày phun 1 lần, phun 2-3 lần.
2.7. Bệnh thối cổ rễ
Bệnh thối cổ rễ phát sinh trên cây con là chính, nhưng có thể gây ra trên cả các giai đoạn khác làm thối hạt, thối mầm, cây đổ và chết đứng.
Bệnh qua đông trong đất làm nguồn xâm nhiễm. Khi nhiệt độ 23-32⁰C, cây con vừa lên được 20 ngày, gặp mưa nhiều, thiếu ánh sáng bệnh sẽ phát sinh phát triển (Hình 39). Thường gặp bệnh này trên cây hoa cúc.
♦ Kỹ thuật phòng trừ:
(1) Chọn đất mới hoặc khử trùng đất
(2) Kịp thời khử bỏ cây bị bệnh, sử dụng phân hoai không mang nấm bệnh
(3) Phun thuốc: a) Dùng Zineb 0,2%; b) Khi mới bị bệnh phun Captan 0,2% hoặc Daconil 0,1%.
2.8. Bệnh thối nhũn do vi khuẩn
Bệnh thối nhũn phát sinh chủ yếu trên cây cảnh rễ củ, rễ chùm, sau khi cây bị thối thường có mùi. Bệnh làm cho lá, thân cây phình nước, màu sẫm, mềm có chất nhầy, cắt cây có ống dẫn màu nâu, đen. Bệnh nặng có thể thấy chất nhầy màu trắng sáp và có mùi thối (Hình 40).
Bệnh qua đông trong đất và nước tưới, lây lan nhờ côn trùng, xâm nhập qua vết thương. Vi khuẩn gây bệnh tiết ra chất độc làm cho các tế bào bị chết. Nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển vi khuẩn là 27-30⁰C, thời tiết ẩm, đất nhiều nước có lợi cho vi khuẩn sinh sản, lây lan. Nhiệt độ cao, độ ẩm cao, không thoáng gió thường hay có bệnh này.
Ta thường gặp ở trên cây loa kèn, cây tai thỏ, cây cẩm chướng.
♦ Kỹ thuật phòng trừ:
(1) Trước khi cất trữ giống cần khử trùng bằng 1:80 Formalin và chú ý thông gió, bảo đảm khô mát
(2) Cần khử trùng đất trước khi đem vào chậu
(3) Trước khi trồng củ nên khử trùng bằng Streptomicin 700 đơn vị/ml, ngâm 30-60 phút
(4) Trong thời kỳ sinh trưởng nếu thấy bệnh phải cắt bỏ ngay.
2.9. Bệnh virus
Bệnh cây do virus gây ra được gọi chung là bệnh virus. Rất nhiều loài cây cảnh bị bệnh virus như cây thủy tiên, cây cẩm chướng, cây loa kèn. Bệnh virus gây ra làm giảm sản lượng, gây tổn thất rất lớn
a. Hiện tượng
Bệnh virus thường có 3 loại hiện tượng:
(1) Làm mất màu gây ra khảm lá hoặc vàng lá
(2) Mô bị chết thối
(3) Xoăn lá, lá cành nhỏ lại
b. Phương thức lây lan
(1) Thông qua nhựa cây do tiếp ghép, chuyển cây, tỉa cành
(2) Lây lan nhờ côn trùng miệng chích hút như ve, rệp
(3) Thông qua củ, vảy của cây cảnh.
c. Phương pháp phòng trừ
Hiện nay chưa có thuốc hóa học để phòng trừ, nên ta phải lấy phòng là chính, tiêu diệt nguồn xâm nhiễm, tăng cường kiểm dịch, tăng cường chăm sóc quản lý.
Viết bình luận